Chỉ số đo lường sự thay đổi về giá nhập khẩu hàng hóa vào Úc và xuất khẩu hàng hóa từ Úc Quý III/2021.
Chỉ số giá xuất khẩu tăng 6,2% trong Quý III và 41,0% trong cả năm.
Chỉ số giá nhập khẩu tăng 5,4% trong Quý III và 6,4% trong cả năm.
Về chỉ số giá xuất khẩu
Những mặt hàng đóng góp chính cho sự gia tăng gồm:
+ Than, cốc và than đóng bánh (tăng 48,1%), tăng cao bởi nhu cầu toàn cầu về than nhiệt và luyện cốc.
+ Khí đốt, tự nhiên và sản xuất (tăng 39,5%), do sự gia tăng của các hợp đồng về dầu mỏ do giá dầu tiếp tục tăng trong năm 2021.
+ Kim loại màu (tăng 17,1%), do nhu cầu sản xuất tăng lên khi các hạn chế về đại dịch giảm bớt và khôi phục các hoạt động kinh tế.
+ Thịt và các chế phẩm từ thịt (tăng 10,3%), do nhu cầu thịt bò tăng mạnh và nguồn cung toàn cầu hạn chế.
+ Dầu mỏ, sản phẩm dầu mỏ và các nguyên liệu liên quan (tăng 12,0%), do nhu cầu dầu toàn cầu tăng mạnh và nguồn cung toàn cầu hạn chế.
Những mặt hàng xuất khẩu có chỉ số giá giảm gồm:
+ Quặng kim loại và phế liệu kim loại (giảm 12,8%), do nhu cầu quặng sắt từ Trung Quốc giảm.
Trong năm, chỉ số giá xuất khẩu tăng 41,0%, những mặt hàng chính gồm:
+ Quặng kim loại và phế liệu kim loại (tăng 36,1%),
+ Than đá, than cốc và than bánh (tăng 82,8%), và
+ Khí đốt, tự nhiên và sản xuất (tăng 96,2%).
Về chỉ số giá nhập khẩu
Những mặt hàng chính gia tăng gồm:
+ Dầu mỏ, các sản phẩm dầu mỏ và các nguyên liệu liên quan (tăng 12,2%), do giá các sản phẩm tinh chế tăng, nhu cầu dầu mạnh hơn và nguồn cung toàn cầu bị hạn chế.
+ Phân bón (trừ dầu thô) (tăng 42,6%), do chi phí sản xuất năng lượng tăng, nhu cầu và nguồn cung toàn cầu hạn chế.
+ Phương tiện giao thông đường bộ (bao gồm cả phương tiện đệm khí) (tăng 2,7%), do nhu cầu toàn cầu đang tăng mạnh đối với các phương tiện vận tải hành khách và xe thương mại mới, và sự thiếu hụt linh kiện đầu vào ảnh hưởng đến nguồn cung toàn cầu.
+ Sắt thép (tăng 18,7%), do sự bùng nổ xây dựng toàn cầu, hạn chế về hậu cần và thiếu hụt nguồn cung.
+ Sợi dệt, vải, sản phẩm trang trí và các sản phẩm liên quan (tăng 13,6%), do chi phí đầu vào tăng, đặc biệt là bông.
Những mặt hàng nhập khẩu có chỉ số giá giảm gồm:
Thiết bị viễn thông và thiết bị ghi âm (giảm 2,0%), do giảm giá điện thoại di động kiểu cũ.
Trong năm, chỉ số giá nhập khẩu tăng 6,4%. Mặt hàng đóng góp vào mức tăng chính là: xăng dầu, sản phẩm dầu mỏ và các nguyên liệu có liên quan (tăng 57,0%).
Chỉ số giá xuất khẩu tăng 6,2% trong Quý III và 41,0% trong cả năm.
Chỉ số giá nhập khẩu tăng 5,4% trong Quý III và 6,4% trong cả năm.
Về chỉ số giá xuất khẩu
Những mặt hàng đóng góp chính cho sự gia tăng gồm:
+ Than, cốc và than đóng bánh (tăng 48,1%), tăng cao bởi nhu cầu toàn cầu về than nhiệt và luyện cốc.
+ Khí đốt, tự nhiên và sản xuất (tăng 39,5%), do sự gia tăng của các hợp đồng về dầu mỏ do giá dầu tiếp tục tăng trong năm 2021.
+ Kim loại màu (tăng 17,1%), do nhu cầu sản xuất tăng lên khi các hạn chế về đại dịch giảm bớt và khôi phục các hoạt động kinh tế.
+ Thịt và các chế phẩm từ thịt (tăng 10,3%), do nhu cầu thịt bò tăng mạnh và nguồn cung toàn cầu hạn chế.
+ Dầu mỏ, sản phẩm dầu mỏ và các nguyên liệu liên quan (tăng 12,0%), do nhu cầu dầu toàn cầu tăng mạnh và nguồn cung toàn cầu hạn chế.
Những mặt hàng xuất khẩu có chỉ số giá giảm gồm:
+ Quặng kim loại và phế liệu kim loại (giảm 12,8%), do nhu cầu quặng sắt từ Trung Quốc giảm.
Trong năm, chỉ số giá xuất khẩu tăng 41,0%, những mặt hàng chính gồm:
+ Quặng kim loại và phế liệu kim loại (tăng 36,1%),
+ Than đá, than cốc và than bánh (tăng 82,8%), và
+ Khí đốt, tự nhiên và sản xuất (tăng 96,2%).
Về chỉ số giá nhập khẩu
Những mặt hàng chính gia tăng gồm:
+ Dầu mỏ, các sản phẩm dầu mỏ và các nguyên liệu liên quan (tăng 12,2%), do giá các sản phẩm tinh chế tăng, nhu cầu dầu mạnh hơn và nguồn cung toàn cầu bị hạn chế.
+ Phân bón (trừ dầu thô) (tăng 42,6%), do chi phí sản xuất năng lượng tăng, nhu cầu và nguồn cung toàn cầu hạn chế.
+ Phương tiện giao thông đường bộ (bao gồm cả phương tiện đệm khí) (tăng 2,7%), do nhu cầu toàn cầu đang tăng mạnh đối với các phương tiện vận tải hành khách và xe thương mại mới, và sự thiếu hụt linh kiện đầu vào ảnh hưởng đến nguồn cung toàn cầu.
+ Sắt thép (tăng 18,7%), do sự bùng nổ xây dựng toàn cầu, hạn chế về hậu cần và thiếu hụt nguồn cung.
+ Sợi dệt, vải, sản phẩm trang trí và các sản phẩm liên quan (tăng 13,6%), do chi phí đầu vào tăng, đặc biệt là bông.
Những mặt hàng nhập khẩu có chỉ số giá giảm gồm:
Thiết bị viễn thông và thiết bị ghi âm (giảm 2,0%), do giảm giá điện thoại di động kiểu cũ.
Trong năm, chỉ số giá nhập khẩu tăng 6,4%. Mặt hàng đóng góp vào mức tăng chính là: xăng dầu, sản phẩm dầu mỏ và các nguyên liệu có liên quan (tăng 57,0%).
Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Úc