Năm 2020, LB Nga nhập khẩu 151 ngàn tấn chè với trị giá là 412 triệu USD (giảm 3% so với cùng kỳ năm 2019). Các nước xuất khẩu chè lớn nhất vào thị trường Nga gồm: Sri-lanka (124 triệu USD – chiếm 30% thị phần), Ấn Độ (91,9 triệu USD – 22,3%), Kenia (53,8 triệu USD – 13,1%), Trung Quốc (39 triệu USD – 9,5%), Việt Nam (24,9 triệu USD – 6%). Như vậy so với năm 2019, xếp hạng của các nước xuất khẩu chè lớn nhất vào LB Nga không thay đổi.
Về khối lượng, thống kê năm 2020 cho thấy Ấn Độ là nước xuất khẩu chè lớn nhất vào Nga (39,8 ngàn tấn – chiếm tỷ trọng 26,3%), tiếp theo là Sri-lanka (31,8 ngàn tấn – 21,05%), Kenia (23,8 ngàn tấn – 15,7%), Việt Nam (15,5 ngàn tấn – 10,26%), Trung Quốc (15 ngàn tấn – 9,9%).
Cũng theo thống kê của Hải quan LB Nga, chè của Việt Nam xuất khẩu sang LB Nga có 4 loại chính là sản phẩm chè xanh dạng gói dùng ngay có khối lượng tịnh không quá 3kg (mã HS: 02 090210), sản phẩm chè xanh khác có hoặc không có hương liệu phụ gia (mã HS: 02 090220), sản phẩm chè đen dạng gói dùng ngay có khối lượng tịnh không quá 3kg (mã HS 02 090230) và sản phẩm chè đen khác có hoặc không có hương liệu phụ gia (mã HS 02 090240). Trong 4 mã sản phẩm này thì sản phẩm chè đen khác có hoặc không có hương liệu phụ gia (mã HS 02 090240) chiếm đến 96,1% tổng lượng chè xuất khẩu của Việt Nam sang LB Nga. Đồng thời khi so sánh giữa giá trị kim ngạch và khối lượng cũng như căn cứ vào chủng loại chè xuất khẩu thì có thể thấy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Nga chè ở dạng thô có chất lượng không cao, giá thấp nên mặc dù khối lượng xuất khẩu khá lớn nhưng kim ngạch thấp (xấp xỉ 1600 USD cho 1 tấn chè).
Để có thể tăng kim ngạch và thị phần xuất khẩu chè vào LB Nga, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường đầu tư cho công tác phát triển thị trường như: nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước xây dựng - quảng bá thương hiệu tại các hội chợ triển lãm thực phẩm, đồ uống, hội chợ chuyên ngành tại LB Nga, tiến tới tổ chức kênh giới thiệu, phân phối sản phẩm chè có thương hiệu tại thị trường. Đây là khâu mà các doanh nghiệp Sri-lanka, Ấn Độ, Trung Quốc hiện đang làm rất tốt.
Về khối lượng, thống kê năm 2020 cho thấy Ấn Độ là nước xuất khẩu chè lớn nhất vào Nga (39,8 ngàn tấn – chiếm tỷ trọng 26,3%), tiếp theo là Sri-lanka (31,8 ngàn tấn – 21,05%), Kenia (23,8 ngàn tấn – 15,7%), Việt Nam (15,5 ngàn tấn – 10,26%), Trung Quốc (15 ngàn tấn – 9,9%).
Cũng theo thống kê của Hải quan LB Nga, chè của Việt Nam xuất khẩu sang LB Nga có 4 loại chính là sản phẩm chè xanh dạng gói dùng ngay có khối lượng tịnh không quá 3kg (mã HS: 02 090210), sản phẩm chè xanh khác có hoặc không có hương liệu phụ gia (mã HS: 02 090220), sản phẩm chè đen dạng gói dùng ngay có khối lượng tịnh không quá 3kg (mã HS 02 090230) và sản phẩm chè đen khác có hoặc không có hương liệu phụ gia (mã HS 02 090240). Trong 4 mã sản phẩm này thì sản phẩm chè đen khác có hoặc không có hương liệu phụ gia (mã HS 02 090240) chiếm đến 96,1% tổng lượng chè xuất khẩu của Việt Nam sang LB Nga. Đồng thời khi so sánh giữa giá trị kim ngạch và khối lượng cũng như căn cứ vào chủng loại chè xuất khẩu thì có thể thấy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Nga chè ở dạng thô có chất lượng không cao, giá thấp nên mặc dù khối lượng xuất khẩu khá lớn nhưng kim ngạch thấp (xấp xỉ 1600 USD cho 1 tấn chè).
Để có thể tăng kim ngạch và thị phần xuất khẩu chè vào LB Nga, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường đầu tư cho công tác phát triển thị trường như: nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước xây dựng - quảng bá thương hiệu tại các hội chợ triển lãm thực phẩm, đồ uống, hội chợ chuyên ngành tại LB Nga, tiến tới tổ chức kênh giới thiệu, phân phối sản phẩm chè có thương hiệu tại thị trường. Đây là khâu mà các doanh nghiệp Sri-lanka, Ấn Độ, Trung Quốc hiện đang làm rất tốt.
Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Nga