So với tháng đầu năm, chỉ số giá nhập khẩu 2 nhóm sắt thép không hợp kim và thép không gỉ, thép hợp kim khác tháng 02/2021 tiếp tục tăng. So với tháng 02/2020, chỉ số giá 2 nhóm trên cùng tăng.

 Chỉ số giá nhóm sắt và thép không hợp kim tháng 02/2021 đạt 118,16% so với kỳ gốc 2015, tăng thêm 0,85% so với tháng trước và tăng 10,31% so với tháng 02/2020. Tính chung 2 tháng năm 2021 chỉ số giá nhập khẩu nhóm sắt và thép không hợp kim tăng 9,27% so với cùng kỳ năm 2020.
Chỉ số giá nhóm thép không gỉ, thép hợp kim khác tháng 02/2021 đạt 124,35% so với kỳ gốc 2015, tăng thêm 6,87% so với tháng trước và tăng 9,58% so với tháng 02/2020. Tính chung 2 tháng năm 2021 chỉ số giá nhập khẩu nhóm hàng thép không gỉ, thép hợp kim khác tăng 3,73% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo nhóm hàng
So với tháng trước, chỉ số giá tăng do tác động của 6 nhóm hàng HS 4 chữ số tăng. Trong đó, nhóm HS 72.23 (thép không gỉ dạng dây) tăng nhiều nhất với 9,83% và nhóm HS 72.29 (dây thép hợp kim khác) tăng ít nhất với 2,13%. Ngược lại, có 6 nhóm hàng chỉ số giá giảm dao động trong biên độ 0,24% (HS 72.27 - các dạng thanh và que thép hợp kim khác, được cán nóng, dạng cuộn không đều) đến 6,46% (HS 72.24 - thép hợp kim khác ở dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác; các bán thành phẩm bằng thép hợp kim khác).

So với tháng 02/2020, chỉ số giá nhóm HS 72.29 (dây thép hợp kim khác) tăng nhiều nhất với 15,66% và nhóm HS 72.20 (thép không gỉ, cán phẳng, rộng dưới 600 mm) tăng ít nhất với 0,45%. Ngược lại, có 2 nhóm hàng chỉ số giá giảm là HS 72.22 (thép không gỉ, dạng góc, khuôn, hình) giảm 13,43% và HS 72.24 (thép hợp kim khác ở dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác; các bán thành phẩm bằng thép hợp kim khác) giảm 27,29%.
So cùng kỳ năm 2020, chỉ số giá nhóm HS 72.19 (thép không gỉ, cán phẳng, rộng trên 600 mm) tăng nhiều nhất với 10,96% và nhóm HS 72.20 (thép không gỉ, cán phẳng, rộng dưới 600 mm) tăng ít nhất với 0,78%. Ngược lại, chỉ số giá nhóm HS 72.24 (thép hợp kim khác ở dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác; các bán thành phẩm bằng thép hợp kim khác) giảm nhiều nhất với 21,3% và nhóm HS 72.26 (thép hợp kim, cán phẳng, rộng dưới 600 mm) giảm ít nhất với 1,03%.

Theo thị trường

So với tháng 01/2021, chỉ số giá từ Hồng Kông (Trung Quốc) tăng nhiều nhất với 9,75% và từ Nhật Bản tăng ít nhất với 1,02%. Ngược lại, chỉ số giá từ Pháp giảm nhiều nhất với 8,38% và từ Nam Phi giảm ít nhất với 6,11%.
So với tháng 02/2020, chỉ số giá từ Trung Quốc tăng nhiều nhất với 17,31% và từ Ấn Độ tăng ít nhất với 1,94%. Ngược lại, chỉ số giá từ Hà Lan giảm nhiều nhất với 16,71% và giảm ít nhất từ Thái Lan giảm ít nhất với 0,8%.
So với cùng kỳ năm 2020, chỉ số giá từ Pháp tăng nhiều nhất với 23,85% và từ Hàn Quốc tăng ít nhất với 0,57%. Ngược lại, chỉ số giá từ Hoa Kỳ giảm nhiều nhất với 16,5% và giảm ít nhất từ Ấn Độ với 4,31%.

Giá thép có thể đảo chiều trong năm 2021

Đánh giá về triển vọng ngành thép năm 2021, tăng trưởng nhu cầu trong nước dự kiến sẽ phục hồi trở lại mức bình thường là 8% so với mức thấp trong năm 2020. Các động lực thúc đẩy nhu cầu thép bao gồm đầu tư cơ sở hạ tầng và dòng vốn FDI, điều này cũng giúp thúc đẩy hoạt động xây dựng dân dụng dọc theo các công trình cơ sở hạ tầng và dự án FDI.
Nhu cầu từ xuất khẩu vẫn khá tích cực, nhưng dự kiến cạnh tranh gay gắt hơn. Theo Hiệp hội thép Thế giới, nhu cầu thế giới dự kiến sẽ tăng 4,1% trong năm 2021 sau khi giảm 2,4% vào năm 2020 - được thúc đẩy bởi sự phục hồi ở các thị trường phát triển. Nhu cầu của thị trường mới nổi (trừ Trung Quốc) dự kiến cũng sẽ tăng 9,4% trong năm 2021.
Mặt khác, sau khi ước tính tăng 8% trong năm 2020 - được thúc đẩy bởi đầu tư cơ sở hạ tầng - nhu cầu ở Trung Quốc dự kiến sẽ đi ngang trong năm 2021. Do đó, ước tính xuất khẩu thép của Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng một con số trong năm 2021. Tuy nhiên, nguồn cung thế giới ổn định cũng có thể dẫn đến áp lực cạnh tranh gay gắt hơn đối với thị trường xuất khẩu.
Giá có xu hướng tăng nên tỷ suất lợi nhuận của các công ty thép cải thiện trong ngắn hạn, nhưng có khả năng đảo chiều. Cụ thể giá thép sẽ vẫn ổn định trong những tháng tới do nhu cầu thế giới phục hồi và gián đoạn nguồn cung, nhưng có thể đạt đỉnh vào một thời điểm nào đó trong năm 2021 khi nguồn cung dần ổn định (sản lượng thép của Trung Quốc dự kiến sẽ tăng khoảng 2% trong năm 2021, sau khi tăng khoảng 5% trong năm 2020).
Về dài hạn, ngành thép được đánh giá với nhiều tín hiệu lạc quan, khi nhu cầu thép có thể tiếp tục được hỗ trợ bởi sự phục hồi của thị trường bất động sản, dòng vốn FDI và đầu tư công trong những năm tới. Ngoài ra, một số công ty thép có thể tận dụng tối đa nguồn cung HRC trong nước đang thiếu hụt và duy trì tốc độ tăng trưởng lợi nhuận ròng trên 10% trong năm 2022.
Tuy vận, vẫn có những rủi ro với ngành thép trong thời gian tới, đó là giá nguyên liệu tăng. Giá các nguyên liệu chính để sản xuất thành phẩm như quặng sắt, phế liệu và HRC đã tăng 40-90% so với đầu năm, trong đó mức tăng từ 30% -35% chỉ diễn ra ở hai tháng cuối năm. Do các công ty sản xuất có thể sử dụng hàng tồn kho hiện có trong khoảng thời gian từ 2-4 tháng, chi phí nguyên liệu cao sẽ được phản ánh nhiều hơn vào đầu năm tới, điều này sẽ gây áp lực lên các công ty thép, đặc biệt là những công ty nhỏ, thị phần thấp.
Ngoài ra, do nguồn cung (trên toàn cầu) dự kiến sẽ ổn định vào năm 2021, giá thép có thể điều chỉnh trong năm 2021, điều này cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ suất lợi nhuận của các công ty thép.