Chỉ số giá nhập khẩu giấy các loại tháng 02/2021 đạt 86,43% so với kỳ gốc năm 2015, đổi chiều tăng 1,4% sau 6 tháng giảm liên tiếp nhưng giảm 13,19% so với tháng 02/2020. Tính chung 2 tháng đầu năm 2021, chỉ số giá giảm 14,53% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo nhóm hàng
So với tháng trước, chỉ số giá đổi chiều tăng do nhiều nhóm hàng có chỉ số giá đổi chiều tăng hoặc tăng thêm: nhóm hàng HS 48.05 (giấy và cáctông không tráng khác) đổi chiều tăng 4,09%. Trong đó, hầu hết các nhóm hàng HS 6 chữ số có chỉ số giá tăng: HS 48.05.11 (giấy làm lớp sóng sản xuất từ bột giấy bán hoá học) tăng 5,69%, HS 48.05.24 (giấy cáctông lớp mặt có định lượng dưới 150g/m2) đổi chiều tăng 6,15%, HS 48.05.25 (giấy cáctông lớp mặt có định lượng trên 150g/m2) tăng 2,77%.
+ Nhóm hàng HS 48.10 (giấy và cáctông, đã tráng một hoặc cả hai mặt bằng một lớp cao lanh hoặc bằng các chất vô cơ khác…) đổi chiều tăng 1,94% sau 6 tháng giảm liên tiếp. Trong đó, hầu hết các nhóm hàng HS 6 chữ số có chỉ số tăng: HS 48.10.13 (giấy dùng để in hoặc mục đích đồ bản, hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hoá học không quá 10% dạng cuộn) tăng 1,7%, HS 48.10.19 (giấy dùng để in hoặc mục đích đồ bản, hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hoá học không quá 10% loại khác) đổi chiều tăng 6,18%, HS 48.10.22 (giấy dùng để in hoặc mục đích đồ bản, hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hoá học trên 10%, có tráng nhẹ) đổi chiều tăng 0,49%, HS 48.10.29 (giấy dùng để in hoặc mục đích đồ bản, hàm lượng bột giấy cơ học hoặc hoá học trên 10% loại khác) đổi chiều tăng 0,15%...
+ Ngoài ra, nhóm hàng HS 48.01 (giấy in báo, dạng cuộn hoặc tờ) đổi chiều tăng 6,22%, HS 48.04 (giấy và cáctông kraft không tráng, ở dạng cuộn hoặc tờ, trừ loại thuộc nhóm 48.02 hoặc 48.03) đổi chiều tăng 1,26%, HS 48.09 (giấy than, giấy tự coppy và các loại giấy dùng để sao chụp khác…) tăng thêm 0,41%.
+ Ngược lại, các nhóm hàng có chỉ số giá giảm là HS 48.02 (giấy và cáctông không tráng, loại dùng để in, viết…) giảm 0,49%, HS 48.11 (giấy, cáctông, tấm lót xenlulo và súc xơ sợi xenlulo, đã tráng, thấm tẩm, phủ, nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, trừ các loại thuộc các nhóm 48.03, 48.09 hoặc 48.10) giảm thêm 5,14% và HS 48.16 (giấy than, giấy tự coppy và các loại giấy dùng để sao chụp khác trừ các loại thuộc nhóm 48.09) giảm thêm 8,16%.
So với tháng 02/2020, chỉ số giá giảm do hầu hết các nhóm hàng có chỉ số giảm. Trong đó, nhóm hàng HS 48.02 giảm 10,83%, HS 48.10 giảm 9,59%, HS 48.11 giảm 32,71%, HS 48.16 giảm 8,18%... Ngược lại, riêng nhóm hàng HS 48.05 tăng 6,37%.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2021, chỉ số giá giảm so với cùng kỳ năm 2020 do hầu hết các nhóm hàng có chỉ số giảm: nhóm HS 48.01 giảm 26,01%, HS 48.02 giảm 11,17%, HS 48.04 giảm 18,91%, HS 48.09 giảm 2,01%, HS 48.10 giảm 9,2%, HS 48.11 giảm 33,43 và HS 48.16 giảm 3,96%. Riêng HS 48.05 có chỉ số giá tăng 4,14%.
Trong 2 tháng đầu năm 2021 kim ngạch nhập khẩu giấy các loại ước đạt 285 triệu USD, tăng khoảng 16,2% so với cùng kỳ năm 2020 tương ứng khoảng 40 triệu USD do yếu tố lượng tăng trong khi giá giảm. Trong đó, do lượng tăng làm kim ngạch tăng khoảng 75 triệu USD và do giá giảm làm kim ngạch giảm khoảng 35 triệu USD.

Theo thị trường
Trong tháng 02/2021, chỉ số giá nhóm hàng giấy nhập khẩu từ nhiều thị trường tăng. Cụ thể, từ Đức tăng thêm 7,06%, từ In-đô-nê-xi-a tăng thêm 1,68%, từ I-ta-li-a tăng thêm 8,35%, từ Hàn Quốc đổi chiều tăng 5,67%, từ Ma-lai-xi-a đổi chiều tăng 5,15%, từ Phi-líp-pin đổi chiều tăng 7%, từ Nga tăng 3,23%, từ Đài Loan (Trung Quốc) đổi chiều tăng 2,4% và từ Thái Lan đổi chiều tăng 1,05%.
So với tháng 02/2020, từ hầu hết các thị trường có chỉ số giá giảm với mức dao động từ 4,92% đến 31,28%.
Tính chung 2 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020, từ 3 thị trường chính Trung Quốc, Hàn Quốc và In-đô-nê-xi-a đều có chỉ số giảm lần lượt là 26,79%; 1,06% và 6,32%.

Giấy-bìa Trung Quốc tăng giá trở lại ngay sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán
Cuối tháng 01/2021, các nhà sản xuất giấy in, viết đều công bố mức tăng bình quân 46-77 USD/tấn, có hiệu lực từ tháng 02/2021 và sau đó sẽ tăng tiếp khoảng 75 USD/tấn trong tháng 3/2021.
Giấy in, viết có tráng cao cấp (CFP) khu vực phía đông (Chiết Giang, Thương Hải) đã tăng từ 955 USD/tấn cuối tháng 01/2021 lên 1.022 USD/tấn cuối tháng 02/2021.
Loại CFP thương phẩm cũng tăng từ 910 USD/tấn lên 975 USD/tấn.
Giấy in, viết không tráng (UFP) từ 100% bột giấy hóa học đạt mức 1.018 USD/tấn, tăng 60 USD/tấn so với giá cuối tháng 01/2021. Loại UFP từ bột gỗ hóa cơ thì tăng từ 895 USD/tấn lên 985 USD/tấn. Loại UFP từ hỗn hợp bột gỗ và phi gỗ cũng tăng 90 USD/tấn, đạt 940 USD/tấn.
Giá bìa ngà có tráng phủ tiếp tục leo thang. Cả hai loại thương mại và cao cấp đều tăng 105 USD/tấn, đạt mức cao nhất mọi thời điểm là 1.350 USD/tấn và 1.317 USD/tấn, tương ứng.
Dự báo là giá giấy bìa ngà sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao, do thiếu hụt nguồn cung từ APP, dự báo sẽ có 600.000 tấn công suất dừng hoạt động trong quý II/2021.
Riêng lĩnh vực giấy bao bì công nghiệp sản xuất từ nguyên liệu giấy thu hồi, do cầu vượt cung nên giá luôn ở mức cao, tăng tới 30 USD/tấn trong tháng 02/2021.
Bìa duplex gáy xám có tráng phủ loại thương phẩm đã tăng 38 USD/tấn, đạt mức trung bình 872 USD/tấn. Loại cao cấp đang được bán với giá 932 USD/tấn, tăng trên 60 USD/tấn so với tháng 01/2021.
Do thiếu hụt nguyên liệu OCC, các nhà sản xuất phải bù đắp một phần bằng bột tái chế nhập khẩu, nhưng chính giá bột tái chế cũng cao do khan hiếm OCC tại các quốc gia xuất khẩu bột tái chế, chính điều này đã khiến giá OCC tăng 25-30 USD/tấn ngay sau dịp Tết Nguyên đán, so với cuối tháng 01/2021.
Cuối tháng 02/2021, giấy medium tại khu vực Đông Trung Quốc đang chào khoảng giá 625-675 USD/tấn, trung bình đạt 655 USD/tấn, tăng 25 USD/tấn so với tháng 01/2021. Giấy testliner có giá 700-725 USD/tấn, mức giá trung bình đã tăng từ 675 USD/tấn lên 705 USD/tấn.